SỨC MẠNH MỀM TRONG CÔNG TÁC PHÁT TRIỂN ĐẢNG TRƯỚC BỐI CẢNH TINH GỌN TỔ CHỨC BỘ MÁY Ở VIỆT NAM
"Sức mạnh mềm" là khả năng gây ảnh hưởng bằng sự hấp dẫn, thuyết phục mà không phải bằng sự cưỡng chế hoặc mệnh lệnh hành chính. Trong công tác phát triển đảng, sức mạnh mềm được biểu hiện ở khả năng thu hút quần chúng ưu tú tự nguyện phấn đấu vào Đảng thông qua uy tín, nêu gương, sự hiệu quả lãnh đạo và giá trị đạo đức - văn hóa của các cá nhân và tổ chức đảng. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi uy tín và nêu gương là phương thức thuyết phục bền vững nhất để xây dựng và phát triển đảng, để luôn xây dựng "Đảng ta là đạo đức, là văn minh"(1). Người cũng nhấn mạnh: "Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong"(2). Đây là nền tảng tư tưởng để triển khai sức mạnh mềm trong công tác phát triển đảng của Đảng ta.
Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đang triển khai thực hiện tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, nhằm đưa nước ta vững bước vào kỷ nguyên mới, phấn đấu đến năm 2045 trở thành quốc gia phát triển hùng cường, thịnh vượng. Tuy nhiên, khi sáp nhập đơn vị hành chính, giảm biên chế thì nguồn kết nạp đảng viên cũng ít hơn, nhất là ở cấp cơ sở. Cùng với đó là sự gia tăng áp lực về chất lượng đảng viên. Bộ máy tinh gọn đồng nghĩa với yêu cầu chất lượng đảng viên mới phải cao hơn, vừa có phẩm chất chính trị, đạo đức vừa có năng lực chuyên môn, có thể "gánh" nhiều việc. Số lượng đảng viên giảm nhưng nhiệm vụ lãnh đạo, quản lý vẫn nhiều, khiến đảng viên hiện hữu bị quá tải, từ đó, họ ít có thời gian quan tâm, dìu dắt, bồi dưỡng quần chúng ưu tú - trong khi đây là nhiệm vụ then chốt của công tác phát triển đảng. Điều này tạo áp lực lớn cho công tác phát triển đảng vì không thể chạy theo số lượng như trước, mà phải tuyển chọn kỹ lưỡng. Nếu tinh gọn chỉ dừng ở "giảm số lượng" mà chưa tạo ra sự đổi mới thực chất thì khó tạo được niềm tin, sức hút đối với quần chúng, nhất là thanh niên, trí thức trẻ, những người có trình độ gắn với khoa học công nghệ và chuyển đổi số. Hơn nữa, khi số lượng biên chế giảm, nhiều nơi dễ rơi vào tình trạng "khó tìm nguồn", dẫn đến xu hướng nới lỏng tiêu chuẩn, kết nạp theo cảm tính hoặc hình thức để hoàn thành chỉ tiêu. Điều này có thể làm suy giảm uy tín của tổ chức đảng.
Những thách thức trên cho thấy, tinh gọn bộ máy vừa là sức ép, vừa là phép thử đối với công tác phát triển đảng. Nếu không đổi mới phương thức phát triển, dễ dẫn tới nguy cơ hình thức, suy giảm sức hút của tổ chức đảng và giảm nguồn bổ sung đảng viên mới. Đại hội XIII của Đảng khẳng định: "Xây dựng Đảng về đạo đức… phát huy thật tốt trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên theo phương châm chức vụ càng cao càng phải gương mẫu"(3) là định hướng để phát triển đảng trong bộ máy tinh gọn phải gắn liền với nâng cao uy tín và nêu gương. Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh: "Tinh gọn bộ máy phải đi đôi với nâng cao chất lượng cán bộ, siết chặt kỷ luật, kỷ cương, kiểm soát quyền lực, phòng ngừa tham nhũng, tiêu cực". Vấn đề đặt ra là cần phải tận dụng cơ hội để phát huy sức mạnh mềm để nâng cao công tác phát triển đảng, chuyển từ "nặng về số lượng" sang "chú trọng chất lượng", bền vững và thuyết phục hơn. Do đó, việc đề xuất và thực hiện các giải pháp đồng bộ là hết sức cần thiết nhằm bảo đảm công tác phát triển đảng gắn liền với yêu cầu tinh gọn bộ máy trong giai đoạn mới.
Thứ nhất, hoàn thiện thể chế, cơ chế kiểm soát quyền lực gắn với công tác phát triển đảng.
Đây là điều kiện tiên quyết bảo đảm cho tổ chức đảng hoạt động minh bạch, hiệu quả và là nền tảng trực tiếp của công tác phát triển đảng. Thể chế rõ ràng, giám sát chặt chẽ, quần chúng ưu tú nhận thấy được sự công bằng, chính danh của Đảng, từ đó tự nguyện phấn đấu vào hàng ngũ của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: “Để lãnh đạo cách mạng, Đảng phải mạnh. Đảng mạnh là do chi bộ tốt. Chi bộ tốt là do các đảng viên đều tốt”(4). Như vậy, kiểm soát quyền lực và giữ trong sạch bộ máy không chỉ để tinh gọn, mà còn để tạo môi trường lành mạnh, hấp dẫn cho phát triển đảng viên mới. Để thực hiện giải pháp này, yêu cầu đặt ra là mọi hoạt động tổ chức và công tác cán bộ phải minh bạch, công khai, tránh tình trạng "chạy chức, chạy quyền", "kết nạp đảng viên theo chỉ tiêu". Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: "Tích cực đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; ngăn chặn, đẩy lùi có hiệu quả tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ"(5).
Cùng với đó là yêu cầu gắn kiểm soát quyền lực với nâng cao chất lượng phát triển đảng viên, coi chất lượng là tiêu chí hàng đầu, không chạy theo số lượng. Đảng ta luôn yêu cầu "Tinh giản biên chế phải đi đôi với cơ cấu lại và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức"(6). Xây dựng môi trường dân chủ trong sinh hoạt chi bộ, để quần chúng thấy rõ sự gương mẫu, hấp dẫn từ thực tiễn, từ đó nâng cao sức hút của tổ chức đảng. Để thực hiện tốt yêu cầu trên, cần chú ý các biện pháp sau:
Một là, tiếp tục rà soát, sửa đổi các quy định về tiêu chuẩn đảng viên mới, gắn với yêu cầu của vị trí việc làm trong bộ máy tinh gọn, bảo đảm "giảm số lượng nhưng không giảm chất lượng".
Hai là, đẩy mạnh số hóa quy trình kết nạp đảng viên, ứng dụng công nghệ để quản lý hồ sơ, theo dõi quá trình phấn đấu của quần chúng, bảo đảm khách quan, minh bạch theo Nghị quyết về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Ba là, tăng cường kỷ luật Đảng, kiên quyết đưa ra khỏi hàng ngũ những cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất. Tổng Bí thư Tô Lâm luôn khẳng định quá trình tinh gọn bộ máy nhà nước luôn phải đi đôi với nâng cao chất lượng cán bộ, siết chặt kỷ luật, kỷ cương, kiểm soát quyền lực, phòng ngừa tham nhũng, tiêu cực. Thực tế ở một số địa phương sau sáp nhập đơn vị hành chính cho thấy, nơi nào siết chặt quy trình kết nạp, đề cao minh bạch, thì dù số lượng đảng viên mới giảm, nhưng chất lượng và uy tín lại tăng lên rõ rệt.
Thứ hai, đổi mới công tác cán bộ, nâng cao chất lượng đảng viên trong quá trình tinh gọn tổ chức bộ máy nhằm phát triển đảng viên mới.
Công tác cán bộ là "then chốt của then chốt", có vai trò quyết định đến sự trong sạch, vững mạnh và sức hấp dẫn của Đảng. Trong bối cảnh tinh gọn bộ máy nhằm nâng cao hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, mỗi cán bộ, đảng viên đều là hạt nhân, việc phát triển đảng viên mới càng phải coi trọng chất lượng. Một tổ chức đảng chỉ có sức hút với quần chúng khi trong hàng ngũ của mình tập hợp được những cán bộ, đảng viên gương mẫu, có uy tín, phẩm chất và năng lực.
Muốn vậy, yêu cầu đặt ra là phải đổi mới toàn diện từ khâu tuyển chọn, đào tạo, bố trí đến sử dụng cán bộ; bảo đảm công khai, minh bạch, chống tình trạng chạy chức, chạy quyền. Gắn nâng cao chất lượng cán bộ, đảng viên với yêu cầu phát triển đảng viên mới: đảng viên phải là tấm gương, là "điểm tựa" để quần chúng tin tưởng và noi theo. Kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những cán bộ, đảng viên suy thoái, từ đó tạo môi trường lành mạnh, hấp dẫn để thu hút nhân tố mới vào hàng ngũ và khơi dậy được khát vọng cống hiến, truyền cảm hứng vượt khó, sự sáng tạo để nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy và của tổ chức đảng. Theo đó, cần thực hiện tốt các vấn đề:
Một là, tiếp tục đổi mới và có những bước đột phá mạnh mẽ cơ chế tuyển chọn và đánh giá cán bộ. Bộ máy nhà nước sau tinh gọn cần được bổ sung nhân lực bằng cách triển khai các kỳ thi tuyển, tuyển chọn cạnh tranh, nhất là các vị trí lãnh đạo, quản lý. Việc đánh giá cán bộ phải dựa trên kết quả, sản phẩm công việc (KPI), chứ không dựa trên thâm niên hay quan hệ cá nhân. Điều này tạo ra niềm tin cho quần chúng rằng Đảng luôn công bằng, xứng đáng để phấn đấu vào. Cùng với đó là gắn kết quả công tác cán bộ với phát triển đảng viên mới. Mỗi cấp ủy cần xây dựng kế hoạch phát triển đảng viên gắn với quy hoạch cán bộ, ưu tiên kết nạp những quần chúng đang giữ vai trò nòng cốt trong các cơ quan, đơn vị sau tinh gọn, nhưng cần chú trọng phát triển đảng viên trong lực lượng cán bộ trẻ, công chức xã, phường để bảo đảm tính kế thừa và tính liên tục cho các cấp tổ chức cao hơn.
Hai là, thực hiện chính sách phát hiện, bồi dưỡng nhân tố trẻ, nữ giới, người dân tộc thiểu số nhằm đảm bảo cân bằng về lứa tuổi, giới tính và sự đa dạng thành phần trong tổ chức đảng. Tổ chức các lớp bồi dưỡng, giao việc khó để rèn luyện, qua đó chọn lọc những người có bản lĩnh, năng lực, khát vọng cống hiến. Đây là nguồn bổ sung quan trọng cho công tác phát triển đảng và đảm bảo được cho tổ chức đảng luôn có sức sống và sức chiến đấu. Song song với đó, phải tiến hành nghiêm túc việc xây dựng và triển khai cơ chế sàng lọc, đưa ra khỏi Đảng những người không còn đủ tư cách. Việc "tự thanh lọc" này không chỉ giữ trong sạch đội ngũ mà còn gửi thông điệp mạnh mẽ đến lực lượng đảng viên trong tương lai là đứng trong hàng ngũ Đảng sẽ là vinh dự lớn lao, đồng thời là trách nhiệm cao cả.
Ba là, đề cao vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu của tổ chức. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền. Tổng Bí thư Tô Lâm cũng nhấn mạnh: Mỗi cán bộ, đảng viên phải thật sự là tấm gương về phẩm chất, năng lực, sự tận tụy phục vụ nhân dân; đó mới là sức hút bền vững nhất để phát triển tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên trong tình hình mới. Khi đảng viên hiện hữu bằng uy tín, trách nhiệm, thì sức mạnh mềm trong phát triển đảng sẽ tự nhiên lan tỏa, nhân rộng và được hiện thực hóa, từ đây Đảng không chỉ được bổ sung mà quan trọng hơn là được nhân lên sức mạnh bằng sự cống hiến từ nội lực bên trong chứ không phải bằng danh vọng bên ngoài.
Thứ ba, đổi mới công tác giáo dục chính trị, tư tưởng và truyền thông nhằm nâng cao hiệu quả phát triển đảng.
Giáo dục chính trị, tư tưởng và truyền thông không chỉ là công tác chung, mà còn là "sức mạnh mềm" trực tiếp giúp thu hút, bồi dưỡng, phát triển đảng viên mới trong bối cảnh tinh gọn bộ máy. Đó chính là phương thức lan tỏa sức mạnh mềm, tạo sự hấp dẫn và đồng thuận trong tổ chức và xã hội. Muốn vậy, nội dung giáo dục chính trị, tư tưởng phải thiết thực, dễ hiểu, tránh lý luận khô cứng, gắn với lợi ích và trải nghiệm thực tế của nhân dân. Truyền thông phải thể hiện được kết quả cụ thể từ cải cách, tinh gọn bộ máy, để quần chúng cảm nhận bằng trải nghiệm, thủ tục hành chính nhanh gọn hơn, dịch vụ công minh bạch hơn. Quá trình giáo dục và truyền thông phải phù hợp với từng đối tượng, đặc biệt là thế hệ trẻ - lực lượng tiềm năng trong công tác phát triển đảng. Đây là cơ sở quan trọng để định hướng nội dung bồi dưỡng đối tượng phát triển đảng. Để biện pháp này có hiệu quả cần tập trung vào các nội dung chủ yếu sau:
Một là, đổi mới nội dung giáo dục chính trị, tư tưởng theo hướng gắn lý luận với thực tiễn. Việc giáo dục lý luận không chỉ giảng dạy nghị quyết, văn kiện, mà cần minh họa bằng thành tựu cụ thể: thành tựu kinh tế - xã hội, sự phát triển và trưởng thành của Đảng, tinh gọn bộ máy, chống tham nhũng, nâng cao đời sống nhân dân. Tổ chức các diễn đàn, tọa đàm để quần chúng được trao đổi, phản biện, qua đó củng cố niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng. Trong quá trình tuyên truyền cần lống ghép nêu gương điển hình, nhất là các tấm gương trẻ, nhiệt huyết cống hiến để truyền cảm hứng và tăng sức thuyết phục. Một cán bộ, đảng viên gương mẫu, tận tụy chính là "tuyên truyền viên sống động nhất". Kết hợp biểu dương gương điển hình tiên tiến, lan tỏa trên các phương tiện truyền thông, tạo hình mẫu tích cực để quần chúng noi theo.
Hai là, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ và truyền thông số trong quá trình giáo dục và tuyên truyền về Đảng, về tinh gọn bộ máy nhà nước và thành tựu mọi mặt của đất nước. Thực tế cho thấy đây là biện pháp mang hiệu quả tức thì rất lớn khi vừa gắn kết tuyên truyền về Đảng vừa đáp ứng thị hiếu, nhu cầu và cập nhật được thực tiễn. Theo đó cần xây dựng các kênh truyền thông trên mạng xã hội, video ngắn, đồ họa trực quan để giới thiệu về Đảng, lý tưởng, thành tựu, nhất là các cải cách đem lại lợi ích thiết thực cho dân. Tổ chức các lớp bồi dưỡng chính trị trực tuyến kết hợp trực tiếp để mở rộng cơ hội tiếp cận cho quần chúng trẻ.
Ba là, tăng cường đối thoại, lắng nghe và giải đáp thắc mắc của quần chúng. Cấp ủy, chi bộ cần định kỳ tổ chức đối thoại với quần chúng, giải thích rõ về tiêu chuẩn đảng viên, quy trình kết nạp, cơ hội rèn luyện và phát triển, từ đó củng cố sự tự tin và động cơ trong sáng khi họ phấn đấu vào Đảng. Gắn công tác giáo dục chính trị, tư tưởng với phong trào thi đua yêu nước, các hoạt động xã hội. Qua thực tiễn lao động, học tập, cống hiến, quần chúng ưu tú được rèn luyện, thử thách và trưởng thành, từ đó trở thành nguồn phát triển đảng viên mới chất lượng.
Thứ tư, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong công tác phát triển đảng.
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội vừa là kênh phát hiện, vừa là cơ chế giám sát, vừa là động lực phong trào, trực tiếp tạo nguồn và bảo đảm chất lượng cho công tác phát triển đảng trong bối cảnh tinh gọn bộ máy. Đây là cầu nối trực tiếp giữa Đảng với nhân dân, đồng thời là "trường học thực tiễn" để phát hiện, bồi dưỡng, giới thiệu quần chúng ưu tú cho Đảng. Trong bối cảnh tinh gọn bộ máy, khi số lượng tổ chức và cán bộ chuyên trách giảm, vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội càng trở nên quan trọng trong việc duy trì nguồn phát triển đảng viên mới. Đại hội lần thứ XIII của Đảng khẳng định: "Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội hướng mạnh về cơ sở, địa bàn dân cư, thực hiện tốt vai trò giám sát, phản biện xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên và nhân dân, làm cầu nối quan trọng giữa Đảng và nhân dân"(7). Yêu cầu đặt ra là Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội phải thật sự đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, tránh hành chính hóa, hình thức; hoạt động phải sát dân, gắn với lợi ích của nhân dân. Cần gắn công tác phát triển đảng viên với các phong trào thi đua yêu nước, qua đó chọn lọc được những quần chúng tiêu biểu, có động cơ trong sáng. Cùng với đó là phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội để góp phần kiểm soát quyền lực, bảo đảm việc phát triển đảng viên mới khách quan, đúng tiêu chuẩn… Muốn vậy cần làm tốt các vấn đề sau:
Một là, tổ chức các phong trào thi đua yêu nước, các hoạt động xã hội rộng khắp để phát hiện nhân tố tích cực, các tấm gương nêu cao khát vọng cống hiến. Thực tế cho thấy từ phong trào "Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới", "Thanh niên khởi nghiệp", "Phụ nữ sáng tạo - khởi nghiệp"…đã có nhiều quần chúng ưu tú trưởng thành và trở thành đảng viên. Đây là kênh quan trọng để bổ sung nguồn phát triển đảng viên mới.
Hai là, phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong quy trình phát triển đảng viên. Điều này vừa ngăn ngừa tiêu cực, vừa củng cố niềm tin của quần chúng vào sự khách quan, công bằng của tổ chức đảng.
Ba là, nhân rộng các điển hình đoàn thể giới thiệu quần chúng ưu tú vào Đảng. Thực tế cho thấy, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh ở nhiều địa phương đã trở thành "nguồn chính" bổ sung đảng viên mới, nhất là trong công nhân, sinh viên, trí thức trẻ. Việc tổng kết, nhân rộng mô hình này sẽ tăng cường hiệu quả phát triển đảng trong bối cảnh tinh gọn tổ chức bộ máy. Gắn việc đánh giá hiệu quả hoạt động của Mặt trận và đoàn thể với tiêu chí phát triển đảng. Cấp ủy cần coi kết quả giới thiệu, bồi dưỡng quần chúng ưu tú là một chỉ tiêu quan trọng khi đánh giá đoàn thể hằng năm. Như vậy, phong trào quần chúng sẽ thực sự trở thành "vườn ươm" cho công tác phát triển đảng viên mới.
Trong bối cảnh toàn Đảng đang quyết liệt triển khai chủ trương tinh gọn tổ chức bộ máy theo tinh thần Nghị quyết số 18-NQ/TW (khóa XII) và các nghị quyết của Trung ương, việc phát huy sức mạnh mềm trong công tác phát triển đảng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Sức mạnh ấy không chỉ đến từ lý tưởng, cương lĩnh chính trị đúng đắn, mà còn được khẳng định bằng thực tiễn: bộ máy gọn nhẹ, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đội ngũ đảng viên gương mẫu, trong sạch, vững mạnh; uy tín của Đảng ngày càng được củng cố trong lòng nhân dân. Phát huy sức mạnh mềm trong phát triển đảng chính là khẳng định vai trò lãnh đạo chính trị của Đảng bằng sự hấp dẫn từ chính giá trị nội tại: minh bạch trong thể chế, trong sạch trong đội ngũ, tận tụy trong hành động. Khi sức mạnh ấy được phát huy, công tác phát triển đảng không chỉ bảo đảm chỉ tiêu về số lượng mà còn nâng tầm chất lượng, trở thành động lực để Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, lãnh đạo toàn dân tộc thực hiện thắng lợi khát vọng phát triển đất nước phồn vinh.
Ghi chú:
(1) Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.403.
(2) Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 15, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011 tr.280.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.4.
(4) Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 15, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.113.
(5) Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.4.
(6) Ban Chấp hành Trung ương, Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25/10/2017 Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
(7) Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.4.
Thượng tá, TS Nguyễn Thanh Minh - Học viện Hậu cần, Bộ Quốc phòng